Saturday, January 20, 2007

Paul Trần Văn Thình - Chuyện đời tôi - TuoiTre

Paul Trần Văn Thình - Chuyện đời tôi

Paul Trần Văn Thình
TT - "Paul Trần: chống hành động Rambo trong thương mại thế giới", "Trần: không có đối thủ", "Cựu du kích quân VN trở thành viên chức hàng đầu của Ủy ban châu Âu"..., đó là những hàng tựa lớn trên các báo nước ngoài viết về Paul Trần Văn Thình. Dù sống và làm việc ở châu Âu mấy mươi năm qua, song dòng máu Việt trong ông không ngừng thôi thúc.

Có một người Việt từ rất lâu đã xâm nhập sâu rộng vào thương trường quốc tế và là nhân chứng của nhiều mốc lịch sử quan trọng. Ông là Paul Trần Văn Thình - nguyên trưởng phái đoàn thường trực của Liên minh châu Âu bên cạnh các tổ chức quốc tế tại Geneva (Thụy Sĩ).

Sinh sống mấy chục năm ở châu Âu, nhưng mỗi sáng thức dậy nhìn vào gương ông vẫn tự nhủ: "Mình là người Việt Nam". Và đó là lý do ông chọn Tuổi Trẻ - tờ báo nơi quê nhà - để chia sẻ những tâm sự riêng về những gì đã trải qua trong đời mình.

Kỳ 1: Bài học đầu đời

Tôi chào đời ngày 5-2-1929 ở tỉnh An Giang, một vùng quê êm ả thanh bình. Cha tôi đặt tên cho tôi là Trần Văn Thìn, đơn giản bởi tôi cầm tinh con rồng. Thế nhưng lúc làm giấy khai sinh, người ta nói sao viết vậy theo kiểu phát âm miền Nam nên tên tôi bị ghi thành Trần Văn Thình. Vậy là tôi mang cái tên lạ vì sự nhầm lẫn đó.

Lời hứa của một đời

Không biết từ bao giờ, trong gia đình tôi định ra một nguyên tắc: con cái không trở thành thương nhân mà phải trở thành công chức.

Thuở thiếu thời, tôi không tỏ ra đặc biệt hay xuất chúng, cũng có đầy đủ thói hư tật xấu như những đứa trẻ khác. Nhưng một "sự cố" đã làm tôi biến đổi hoàn toàn. Đó là năm tôi được 8 tuổi. Tôi về quê nội ở Sa Đéc nghỉ hè. Ông nội tôi có tới ba bà vợ, trong đó bà nội tôi là người trẻ nhất. Bà thứ hai làm nghề bán thuốc bắc. Bà có tiền và là người rất nghiêm khắc. Nhà ông bà nội nhìn ra bờ sông mênh mông, thuyền bè đỗ giăng kín. Tối tối, người ta vẫn thường tổ chức đánh bạc trên các con thuyền ấy.

Có lần tôi đi theo mấy người lớn để xem đánh bạc. Tôi thấy mình cũng có khiếu đỏ đen vì thường đánh trúng. Ngặt một nỗi tôi không có tiền. Tôi để ý bà Hai có một hòm không bao giờ khóa, bên trong có rất nhiều túi vải nhỏ đựng tiền. Một hôm nhân lúc vắng người, tôi lẻn vào phòng lấy một túi. Làm một lần không bị ai phát hiện trong khi đánh bạc lại thua, tôi lấy tiếp lần hai. Rồi cứ thế tiếp diễn lần thứ ba và thứ tư. Đến lần thứ năm tôi bị bà Hai phát hiện. Bà Hai hỏi tôi ba bốn lần: "Bà nên xử sự thế nào đây?". Tôi đáp: "Bà đánh cháu mấy roi cũng được, phạt sao cháu cũng chịu. Chỉ xin bà đừng mách ông nội". Trong nhà, tôi sợ ông nội hơn cả vì lúc nào ông cũng nghiêm khắc với con cháu. Bà nói: "Bà sẽ cho cháu một cơ hội. Trong khi cháu suy nghĩ, bà sẽ chưa nói gì với ông. Nhưng cháu phải nghĩ ra một cách để sửa chữa lỗi lầm".

Hôm sau, tôi còn nhớ là một buổi chiều khi hoàng hôn buông xuống bên sông, các nhà đã thắp đèn dầu, bà Hai gọi tôi ra nói chuyện. Tôi thưa với bà: "Cháu xin hứa từ nay trở đi cháu không bao giờ ăn cắp nữa". Bà Hai ngồi lặng thinh, không nói gì lâu lắm. Sau cùng bà bắt tôi phải kể hết cho bà nghe tất cả những lần tôi đã từng ăn cắp vặt. Tôi thành thật kể tôi từng trộm tiền của cha, thậm chí trộm cả tiền trong túi áo của khách khi họ đến nhà tôi chơi. Tôi cũng kể trong bộ sưu tập tem của cha tôi có hai con tem Hungary rất đẹp. Một hôm, tôi bóc trộm để đổi lấy mấy cái nắp chai chơi đánh đáo với bọn trẻ. Cha tôi phát hiện, triệu tập cả nhà vào đúng 18 giờ để chứng kiến hình phạt. Trước mặt bà nội, em trai và em gái tôi, cha tôi bắt tôi tuột quần, đánh đúng 10 roi vào mông. Bà nội tôi khóc hu hu vì thương tôi nhưng cha tôi không chịu ngừng tay. Thế nhưng tôi không khóc. Tôi chỉ cảm thấy ê mặt vì bị đòn giữa chốn đông người.

Sau buổi tối hôm đó, bà Hai gặp lại tôi, yêu cầu tôi nhắc lại lời hứa. Bà nghe rồi nói: "Cháu có chắc đây sẽ là lần cuối cùng không. Cháu đi ăn trộm mới phải nói dối, còn không làm gì sai thì không bao giờ phải nói dối. Làm điều xấu lúc nào cũng phải nghĩ cách đối phó, không bao giờ sống vui được. Điều thứ hai cháu phải nhớ câu "cờ gian bạc lận". Họ giả vờ cho cháu thắng mấy lần đầu đấy, còn khi cháu mang tiền ra đánh rồi, cháu có thấy là mình toàn bị thua không?". Cứ như thế ba ngày liền, chiều nào bà Hai cũng gọi tôi ra, bắt lặp đi lặp lại lời hứa không bao giờ ăn trộm nữa. Ngày cuối cùng, bà hỏi: "Sau những lần cháu hứa như vậy, từ giờ trở đi bà có thể tin cháu được chưa?". Tôi trả lời: "Cháu xin hứa không bao giờ làm chuyện dại dột như thế nữa".

Lời hứa ấy theo tôi đi suốt những năm tháng sau này. Từ đó trở đi, tôi không bao giờ tham gia bất kỳ một trò chơi đỏ đen nào nữa. Lớn lên, tôi ngẫm nghĩ mãi không biết vì sao một bà già ở vùng quê VN lại có cách giáo dục tài tình vậy. Rồi tôi ngộ ra: tất cả phải do tự giác. Bà tôi không thể bắt ép tôi không được nói dối nữa, không được ăn trộm vặt nữa. Mà chính tôi, sau những cuộc đối thoại với bà, tự cảm thấy đó là điều xấu xa không nên lặp lại. Tôi ghi sâu trong lòng hình ảnh cuộc đối thoại cuối cùng, bà nhìn tôi với con mắt âu yếm. Tôi đã khóc không phải vì xấu hổ mà vì cảm động.

Theo kháng chiến

Ông bà thân sinh ông Trần Văn Thình - Ảnh chụp tại Geneva năm 1991
Năm 1945, sau khi phát xít Nhật bị đánh bại ở VN, tôi tham gia kháng chiến. Lúc ấy, thành thật mà nói tôi chưa hiểu lắm về lòng yêu nước. Gia đình tôi vốn có quan hệ khá thân thiết với người Pháp, thậm chí khi người Nhật tạm chiếm miền Nam, cha tôi còn giúp người Pháp cất giấu vũ khí và thuốc men. Việc làm này xuất phát từ lòng tin vào tuyên bố của tướng De Gaulle tháng 1-1944 tại Brazzaville (Congo bây giờ) rằng các nước thuộc địa giúp Pháp chống phát xít Đức sẽ được trả độc lập. Nhưng sau đó, những người Pháp thực dân đã không giữ lời hứa. Tôi bị ảnh hưởng nhiều bởi đạo Khổng, từ bé đã thuộc làu làu Tam quốc. Tôi thích nhất là Quan Công, nhân vật trung thành đến tận xương tủy. Vì vậy, khi thực dân Pháp quay trở lại VN, tôi quyết định tham gia các hoạt động kháng Pháp. Tôi còn rất ghét cha tôi vì ông từng giúp đỡ người Pháp.

Lúc ấy tôi học Trường Pétrus Ký (nay là Trường Lê Hồng Phong). Các học sinh trong trường có phong trào làm lựu đạn tự tạo. Tôi cũng tham gia và giúp một số học sinh cất giữ lựu đạn. Một kỷ niệm ở Trường Pétrus Ký là các học sinh người VN phải tham gia thi tuyển để được vào học. Tôi nhớ khóa năm 1939, năm tôi lên 10, tôi thi vào lớp 6 cùng 3.000 thí sinh khác và đậu thứ ba. Cha tôi làm một bữa tiệc nhẹ, gồm có phó mát, sandwich và rượu vang. Đó là lần đầu tiên trong đời tôi được nếm một ly rượu vang đỏ chát.

Đầu năm 1946, tôi trốn nhà, bỏ học để tham gia lực lượng vũ trang bộ đội Hoàng Diệu thuộc Tỉnh bộ Đồ Chiểu (Bến Tre). Một ngày nọ trên đường hành quân, tôi gặp lại một anh bạn học ở Pétrus Ký. Anh ấy quí tôi, gặp lại tôi liền lôi chai rượu Bordeaux anh ấy cất giấu rất kỹ ra mời. Tôi không uống một mình mà mời cả tỉnh đội uống. Chúng tôi được một buổi thư giãn. Không ngờ khi trung đội trưởng biết chuyện, ông ấy nổi trận lôi đình và ra quyết định hành quyết bạn tôi. Tôi lên tiếng bênh vực thì ông ấy đòi xử tử luôn cả tôi nữa. Tôi đành im lặng. Anh bạn tôi bị bỏ rọ trôi sông. Khi chứng kiến cảnh tượng ấy, tôi quyết định bỏ đi. Tôi nghĩ cách hành xử như vậy là không cao thượng và không công bằng.

Tôi đi lang thang nơi này nơi nọ. Một hôm, tôi nhớ là một ngày nắng hè tháng 6-1946, đang lang thang ở chợ thì bỗng đâu mấy người lính Pháp ập tới. Hóa ra mẹ tôi đã nhờ lính đến bắt đưa tôi về. Mẹ thuyết phục tôi về Sài Gòn học lại, nếu không sẽ cho lính bắt bỏ tù luôn. Vậy là tôi về nhập học ở Trường trung học Chasseloup-Laubat, nay là Trường Lê Quý Đôn.

Trong gần bảy tháng theo kháng chiến ấy, người làm tôi cảm động nhất là người vợ thứ ba của cha tôi. Mỗi khi gặp chuyện gì, tôi hay chạy về nhà bà Ba ở Bến Tre để lánh nạn. Tôi quí bà bởi bà che chở và lo lắng cho tôi không khác gì con ruột.

Trở về Sài Gòn, những tưởng tôi sẽ tu chí ăn học, nhưng những rắc rối mới thật sự bắt đầu.

Tạp chí Kinh Tế Viễn đông (FEER) số ra ngày 11-11-1993 đăng hồ sơ với tựa đề: Cựu du kích quân Việt Nam trở thành viên chức hàng đầu của Ủy ban châu Âu

PAUL TRẦN VĂN THÌNH
(CẨM HÀ - VŨ LẬP ghi)

-------------------------------------

Năm 17 tuổi, Trần Văn Thình bước xuống một chuyến tàu xuất phát từ cảng Sài Gòn thẳng hướng tới Toulouse, Pháp. Cuộc đời của ông lật sang trang mới, khép lại những năm tháng tuổi thơ dữ dội ở Việt Nam.

Kỳ tới: Nước Pháp

Paul Trần Văn Thình - chuyện đời tôi (kỳ 2): Nước Pháp

Trần Văn Thình dẫn đầu một đoàn đại biểu châu Âu tại hội nghị thương mại thế giới gồm đại diện 88 quốc gia tổ chức ngày 28-11-1982 tại Geneva. Ảnh đăng trên báo New York Times  ngày 29-11-1982

TT - Về Sài Gòn học, tôi càng có điều kiện nghe các bài hát của Trần Văn Khê, Lưu Hữu Phước - những bài hát đậm đà tình quê hương và thúc giục chí làm trai. Lúc ấy, tôi đặc biệt thích bài Ngày xưa của tác giả Hoàng Phú, trong đó có câu "đôi quần thoa đem máu đào hòa nước sông nhà" ngợi ca tinh thần yêu nước của Hai Bà Trưng.

>> Kỳ 1: Paul Trần Văn Thình - Chuyện đời tôi

Chuyến tàu định mệnh

Tôi quyết định tham gia một nhóm hoạt động bí mật. Hằng ngày tôi được giao nhiệm vụ đến một hiệu sách. Tôi giở các quyển sách theo mật dấu đã được thông báo trước, trong đó có thể chứa một tờ chỉ thị cho hành động tiếp theo hoặc là ít tiền để mua lại vũ khí của những người lính lê dương da đen.

Một tối tháng 9-1946, tôi vừa mua được hai quả lựu đạn thì gặp lính Pháp đi tuần, bị bắt quả tang với hai quả lựu đạn trong túi. Một sĩ quan nhìn tôi rồi ra lệnh: "Phải xử bắn ngay". Nhưng tay trợ lý bảo rằng để đến 6 giờ sáng mai mới hành quyết được vì lúc ấy đã 23 giờ, muộn rồi.

Tôi bị tống vào một phòng giam trên đường Catinat (Đồng Khởi bây giờ). Ở đó đã có khoảng vài chục người bị giam từ trước. Phòng giam bốc mùi hôi hám vì tất cả việc đại tiểu tiện đều diễn ra ở đó. Tôi là người cuối cùng bị nhốt vào. Lúc ấy tôi coi cái chết nhẹ như lông hồng. Tôi đã chứng kiến nhiều bạn bè chết hoặc bị thương nên không thấy sợ hãi lắm.

Năm giờ sáng, cửa phòng giam bật mở. Một cha tuyên úy mang lon quan ba (đại úy) bước vào. Ông ta có nhiệm vụ cầu nguyện cho những người sắp bị đưa đi hành quyết. Nhìn một lượt, ông ta dừng mắt lại ở tôi, người bé nhỏ nhất phòng. Ông ta nói: "Mày là trẻ ranh mà đã tham gia khủng bố. Giết mày phí đi, mày nên đi theo tao".

Trần Văn Thình thời trai trẻ
Tôi nghĩ họ định đưa tôi đi thủ tiêu riêng nên chống đối kịch liệt. Tôi nói tôi không mang tội khủng bố, tôi căm thù sự dối trá và tội lỗi. Nhưng cha tuyên úy bỗng hạ giọng: "Ta sẽ cứu con. Nước Pháp không giết trẻ con. Ta sẽ giúp đưa con đi Pháp". Nghe vậy, tôi còn cãi lại: "Không, tôi căm thù nước Pháp". Cha tuyên úy nói: "Kể ra con nói cũng phải. Nhưng cứ sang Pháp đi đã. Nhân dân Pháp khác với chính quyền thực dân. Ở đó cũng có những người tử tế. Hơn nữa, ta có bạn bè ở đó, họ có thể tìm một suất học bổng cho con". Vậy là tôi nghe lời, theo cha bước ra khỏi phòng giam. Tôi thoát chết trong gang tấc, chắc là nhờ "cao số".

Một sáng tinh sương vài tuần sau đó, tôi bước xuống một chiếc tàu quân sự đi sang cảng Toulouse miền tây nam nước Pháp. Hành trang mang theo chỉ có ít tiền tiêu vặt do cha tuyên úy cho, một tờ giấy ghi địa chỉ một người chú kết nghĩa đang làm ăn sinh sống tại Pháp. Đặt chân xuống Toulouse, tôi co ro trong lạnh giá.

Nhưng khi gặp mấy người Pháp đầu tiên, tôi bỗng dậy lên một ý nghĩ trả thù kỳ quặc. Tôi gọi họ tới đánh giày cho mình. Sau đó, tôi tìm về Trường cao đẳng Cevenol ở thị trấn Chambon sur Lignion, vùng Auvergne miền nam nước Pháp, nơi cha tuyên úy gửi gắm tôi cùng một suất học bổng. Đó là một ngôi làng đẹp như tranh và thanh bình. Quanh tôi là những cô gái chăn cừu xinh như mộng. Tôi bắt đầu hai năm yên ả trong cuộc đời mình, chỉ lo học.

Những người Pháp tốt bụng

Bạn thử tưởng tượng hình ảnh một cậu bé da vàng, cao chưa tới 1,6m, trứng cá nổi lấm tấm trên mặt và tính tình nhút nhát, đơn độc nơi xa lạ. Đó chính là hình ảnh của tôi những ngày đầu đặt chân tới nước Pháp. Tôi nghĩ cách phải làm sao vượt qua được những "thằng Tây" to cao xung quanh mình. Tôi lý sự thế này: trắng nghĩa là bạc, da vàng nghĩa là vàng, mà vàng thì quí hơn bạc. Tôi tự an ủi mình như thế để vượt qua sự tự ti. Sau này, đó cũng là một phương châm sống của tôi: biến nhược điểm thành lợi thế.

Khi rời VN, tôi còn đang dang dở chương trình tú tài. Vậy mà tới Pháp tôi phải nhập học cao đẳng, nghĩa là vượt trình độ của mình những ba năm.

Sau hai năm học ở Chambon sur Lignion, tháng 10-1948 tôi khăn gói lên Paris vào học tại Viện Khoa học chính trị, Đại học Paris (Institut des Sciences Politiques - Université de Paris), bắt đầu quãng đời sinh viên cực khổ nhưng cũng đầy ắp kỷ niệm. Cha mẹ tôi không gửi tiền cho tôi ăn học. Cứ hai tháng ông bà chỉ gửi cho tôi một bịch gạo, cộng một đôi giày đế kếp và một chút hạt tiêu. Nước Pháp những năm 1950 còn nghèo. Tôi nghĩ rằng không đi làm thêm thì không thể nào đủ tiền ăn học. Vậy là tôi kiếm đủ việc để làm.

Ngày đi học, tối tối tôi gia nhập đội quân lao động cửu vạn ở khu chợ Paris mang vác hàng thuê và giúp bán cam, bán hoa. Như nhiều nơi nghèo khổ khác, cam còn bán được chứ hoa thì tịch chẳng ai mua. Mấy người chủ trả công tôi không phải bằng tiền mà bằng luôn cam và hoa, thỉnh thoảng khá hơn được cải thiện bằng chút sữa chua. Tôi lại phải bán lại số hoa và cam ấy để lấy tiền.

Vì đi làm thêm nhiều, tôi đến lớp thất thường, hay phải mượn sách vở của các bạn chép lại rồi học bằng tài liệu đó. Có một lần tôi đi mua sách bị thiếu 300 quan. Đứng bên cạnh tôi cùng mua sách là một thằng bạn cao to đẹp trai, con nhà giàu. Tôi bèn hỏi vay tiền. Cậu ta vui vẻ giúp. Sau này, khi tôi góp đủ tiền mang tới lớp trả, cậu ta nói với tôi: "Tao biết mày nghèo. Mày giữ lại mà tiêu. Tao không lấy nữa".

Người bạn ấy là Jacques Chirac, vị tổng thống đương nhiệm của nước Pháp. Còn nhớ khi tôi cùng ông Chirac đến TP.HCM lúc ông còn là thị trưởng Paris, tôi nhắc tới món nợ năm nào. Ông ấy hài hước bảo rằng nếu tính cả gốc lẫn lãi thì 300 quan năm nào nay thành món tiền khổng lồ rồi, tôi chẳng thể nào trả nổi.

Trong lớp tôi còn có một bạn học sau này cũng trở thành nhân vật nổi tiếng: cựu thủ tướng Pháp Michel Rocard. Tháng 11-2006, tôi đưa ông ấy cùng vợ và một nhóm bạn bè về VN du lịch. Trong lớp học, Jacques Chirac và Michel Rocard luôn đứng nhất nhì, còn tôi do hay bỏ học nên đứng hạng áp chót. Thế nhưng tôi thường được thầy giáo khen trước lớp vì sự nhanh nhẹn, giỏi xoay xở. Lấy bằng cử nhân xong, tôi lại theo học tiếp để lấy bằng tiến sĩ luật và kinh tế.

Tôi ở trọ tại một căn gác xép trên tầng bảy không có lò sưởi. Đi học về, tôi chui vào rạp chiếu phim ngủ nhờ từ 14g-18g cho ấm. Đói bụng, tôi nghĩ cách xin bà bán cá ở dưới nhà những mẩu xương cá và đầu cá thừa. Tôi nhớ bà ấy là một phụ nữ trông rất ưa nhìn. Tôi nói với bà tôi có nuôi một con mèo, bà ấy vui vẻ cho ngay. Tôi mang về, lạng những mẩu thịt để riêng, còn xương và đầu cá tôi ninh lên thành xúp rồi ăn với bánh mì thành một món ngon tuyệt.

Được một thời gian, một hôm khi tôi xuống xin xương cá như thường lệ, bà bán cá hỏi tôi: "Nhà anh nuôi mèo thật không?". Tôi im lặng, bà ấy nhân hậu bảo: "Anh chính là con mèo phải không?". Từ đó, bà ấy để dành cho tôi những miếng ngon hơn, sạch sẽ hơn. Sau này, tôi cùng vợ trở lại căn gác trọ năm xưa để tìm gặp bà bán cá, nhưng bà không còn ở đó nữa. Đó là một trong những nỗi thất vọng lớn nhất của tôi. Sự tốt bụng của bà làm tôi nhớ mãi.

PAUL TRẦN VĂN THÌNH
(CẨM HÀ - VŨ LẬP ghi)

_________________________________

"Chúng tôi không cần ông, chúng tôi cần một người Pháp chính gốc". Tôi điềm tĩnh nói: "Tôi có quốc tịch Pháp. Tôi nói tiếng Pháp". Thế là cuối cùng hội đồng xét duyệt chọn tôi. Tôi làm việc cần mẫn. Thay vì làm 8-9 tiếng một ngày, tôi làm việc những 15-16 tiếng.

Kỳ tới: Nhà đàm phán thương mại

Paul Trần Văn Thình - chuyện đời tôi : Nhà đàm phán thương mại

Paul Trần Văn Thình

TT - Những bài học vỡ lòng đầu tiên về thương mại đa phương tôi có được là nhờ ông André Philip, cựu bộ trưởng tài chính Pháp thời thủ tướng Paul Ramadier.

Tôi học cùng lớp với Loic Philip, con trai ông ấy, tại Trường Cevenol ở Chambon sur Lignon. Chúng tôi được ông thu nhận làm việc như những thực tập sinh. Nhờ đó, tôi có cơ hội tiếp xúc với nhiều nghị sĩ, giới tài phiệt và các quan chức.

 >> Kỳ 1: Paul Trần Văn Thình - Chuyện đời tôi
 >> Kỳ 2 : Nước Pháp

Hội nghị Havana lịch sử

Cuối năm 1947, khi ông André Philip đi dự Hội nghị Havana ở Cuba, hội nghị tổ chức chưa đầy một tháng sau khi Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT) được 23 nước ký kết tại Geneva (Thụy Sĩ), ông đưa tôi đi cùng để giúp việc.

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, có hai tổ chức quốc tế đóng vai trò trụ cột trong các hoạt động kinh tế tài chính đa phương là Ngân hàng Thế giới và Quĩ Tiền tệ quốc tế. Hội nghị Havana đặt ra tham vọng thành lập Tổ chức Thương mại quốc tế (International Trade Organization - ITO), một cơ chế đặc biệt của Liên Hiệp Quốc trên cơ sở các qui định của GATT. Tháng 3-1948, các nước tham gia đàm phán tại Havana thông qua Hiến chương ITO. Nếu ITO đi vào hoạt động, có thể coi đây chính là mô hình của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).

Tạp chí L'Hebdo của Thụy Sĩ ngày 21-5-1987 đăng bài phỏng vấn Paul Trần Văn Thình với tựa đề:  Paul Trần - chống hành động Rambo trong thương mại thế giới

Thế nhưng sau đó, quốc hội một vài nước - trong đó có quốc hội Hoa Kỳ - không thông qua hiến chương của ITO. Vậy là dự án ITO khai tử. Những nhân chứng tham dự Hội nghị Havana lịch sử nay chỉ còn lại hai người. Đó là tôi và ông Julio Lacarte, người Uruguay.

Tôi không gặp ông Lacarte ở Havana, nhưng sau này khi ông ấy được bổ nhiệm là trưởng phái đoàn thường trực Uruguay bên cạnh các tổ chức quốc tế tại Geneva, chúng tôi cùng phát hiện rằng cả hai từng có mặt tại Havana thời đó.

Tôi tôn ông André Philip là sư phụ của mình. Còn nhớ lúc tôi 25 tuổi, ông ấy nói với tôi: "Anh không thể là một công chức dân chủ nếu ở nhà anh là một tên độc tài". Ý ông ấy nói con người phải là một thể thống nhất, không thể làm chính trị theo kiểu áp đặt độc tài trong cuộc sống và gia đình nhưng lại đi hô hào về dân chủ và mở rộng tự do. Một người vũ phu ở nhà thì sẽ có ngày dùng bạo lực trên vũ đài chính trị.

Sau khi lấy bằng tiến sĩ loại ưu, tôi cũng từng thực tập tại phòng marketing của Hãng ôtô Renault. Nhưng các triết lý và tư tưởng về thương mại toàn cầu mà ông André Philip theo đuổi và truyền dạy cho tôi thúc giục tôi xin vào làm việc tại Ủy ban châu Âu (EC) ở Brussels (Bỉ).

Đó là đầu năm 1961. Tôi lọt được vào vòng phỏng vấn. Hôm tôi đến trình diện, người trực tiếp phỏng vấn tôi là một ông sếp đứng tuổi. Vừa nhìn thấy tôi, ông ấy lắc đầu bảo: "Chúng tôi không cần ông, chúng tôi cần một người Pháp chính gốc". Tôi điềm tĩnh nói: "Tôi có quốc tịch Pháp. Tôi nói tiếng Pháp". Ông sếp đành nói tuột ra: "Tôi cần một người Pháp làm trợ lý cho tôi vì tôi là người Ý".

Thế nhưng cuối cùng hội đồng xét duyệt vẫn chọn tôi. Ông người Ý không hài lòng. Ngày đầu tôi đi làm, ông ấy bảo: "Tôi không chọn ông. Nhưng chúng ta vẫn làm việc và hợp tác với nhau".

Làm việc cần mẫn

Một bài báo của Le Figaro ngày 10-2-1993 về vòng đàm phán GATT. Paul Trần Văn Thình tuyên bố: Nếu chính quyền Bill Clinton thúc đẩy chủ nghĩa bảo hộ, một sự phản ứng dữ dội từ châu Âu là điều không thể tránh khỏi. Ảnh: Trần Văn Thình, đại diện EC tại GATT, trong cuộc chạm trán đầu tiên với Mickey Kantor - đại diện thương mại mới của chính quyền Clinton

Lúc đó tôi suy nghĩ mông lung lắm. Mới ra đời làm việc mà xem chừng bị gặp nhiều bất lợi vì màu da vàng và vóc dáng nhỏ bé, không biết cả cuộc đời mình rồi sẽ ra sao. Tôi vừa tự ái xen lẫn chút tự ti. Cuối cùng tôi chọn cách làm việc để khẳng định mình, quyết định không gây hấn gì với ông sếp cả.

Tôi làm việc cần mẫn. Thay vì làm 8 -9 giờ một ngày, tôi làm việc những 15-16 giờ. Tôi giữ thói quen dậy từ lúc 5 giờ sáng để bắt đầu một ngày làm việc cho tới tận bây giờ. Dần dần, tôi được ông sếp tín nhiệm, còn bản thân ông ấy trở nên lười, cứ việc khó là thảy cho tôi. Nhưng chúng tôi lại trở thành bạn thân.

Thời đó, người châu Á làm việc ở châu Âu rất hiếm. Có lần tôi được mời đi dự một cuộc họp cao cấp. Tới nơi họp, tôi chưa kịp trình bày thì anh gác cổng xua tay bảo: "Hôm nay không ai họp với người Nhật đâu". Tôi đưa giấy tờ cho họ xem nhưng họ nhất định làm khó tôi. Tôi còn bị bực mình như vậy mấy lần nữa.

Tôi nhớ trong phòng của tôi có những 13 nhân viên nữ mà bà nào cũng không được xinh đẹp cho lắm. Hồi tôi mới vào làm, các bà ấy tỏ ra khó tính, mặt mũi lúc nào cũng cau có. Sau này, bà nào cũng trẻ ra, đẹp ra thế mới lạ. Mọi người bảo đó là nhờ sự vui vẻ và tốt tính của tôi đã "cảm hóa" các bà ấy. Tôi cũng thích tin là đúng vậy.

Suốt từ năm 1961, tôi phụ trách về chính sách thương mại với các nước đang phát triển. Duyên nợ của tôi sau này cũng gắn chặt với các nền kinh tế đang phát triển, đặc biệt là vùng châu Á và Mỹ Latin.

Năm 1971, tôi phát kiến ra hình thức chưa từng có tiền lệ trên thế giới giúp các nước đang phát triển được hưởng ưu đãi về thuế. Đó là GSP (chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập), cho phép các nước đang phát triển tham gia hệ thống này không phải chịu thuế xuất khẩu khi xuất hàng vào Cộng đồng Kinh tế châu Âu (EEC).

Tôi chịu trách nhiệm thảo ra kế hoạch này và đưa nó vào thực thi. Nhờ những đóng góp của tôi trong việc soạn thảo và thực thi kế hoạch này mà Chính phủ Thái Lan tặng tôi Huân chương Bạch tượng, còn Brazil tặng tôi huân chương cao quí nhất mang tên Thập tự miền Nam.

Năm 1972, tôi được bổ nhiệm là trưởng nhóm chuyên gia "Hàng hóa từ các nước đang phát triển - Các thỏa thuận quốc tế", chịu trách nhiệm đàm phán các thỏa thuận về cà phê, ca cao, dầu ôliu và cao su.

Ở vị trí này, tôi thường xuyên phải làm việc với G77, nhóm các nước đang phát triển. Lúc đó, phát ngôn viên cho G77 cũng là một người VN, ông Lê Văn Lợi - đại sứ của chính quyền Sài Gòn cũ tại Liên Hiệp Quốc ở Geneva lúc bấy giờ.

Chúng tôi từng chạm trán nhau nhiều lần trên các bàn đàm phán. Hai người Việt, một người đại diện cho quyền lợi của châu Âu, một người đại diện cho quyền lợi của các nước thuộc thế giới thứ ba. Ông Lợi đã về thăm lại quê hương năm 2004. Chúng tôi duy trì tình bạn thân thiết đến tận bây giờ.

PAUL TRẦN VĂN THÌNH
(CẨM HÀ - VŨ LẬP ghi)

______________________________

Với uy tín từ các cuộc đàm phán về hàng hóa, Trần Văn Thình được giao một nhiệm vụ khó khăn hơn: đàm phán các hiệp định dệt may. Một cuộc đấu trí đã khiến ông phải lập tức nhập viện phẫu thuật.

Kỳ tới: Cuộc chiến dệt may

Paul Trần Văn Thình - chuyện đời tôi (Kỳ 4): Cuộc chiến dệt may

TT - Tháng 6-1977, tôi được bổ nhiệm là đặc sứ của Ủy ban châu Âu (EC) dẫn đầu nhóm chuyên gia 80 người chịu trách nhiệm tham gia đàm phán Hiệp định dệt may đa sợi lần hai của Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT).

Tháng mười cùng năm, tôi còn lãnh một nhiệm vụ khó khăn khác là đàm phán 32 thỏa thuận song phương về dệt may nhằm hạn chế sự tấn công của hàng dệt may vào các nước trong Cộng đồng kinh tế châu Âu (EEC) lúc bấy giờ.

>> Kỳ 1: Paul Trần Văn Thình - Chuyện đời tôi
>> Kỳ 2: Nước Pháp
>> Kỳ 3: Nhà đàm phán thương mại

Sự giận dữ của Hong Kong

Có một kỷ niệm thú vị. Trong lần đàm phán với Hong Kong, dẫn đầu đoàn đại biểu gồm nhiều người châu Á là một ông Tây tóc hung, râu quai nón cao lớn. Còn tôi, một người châu Á nhỏ thó, da vàng mũi tẹt lại dẫn đầu đoàn đàm phán gồm một nhóm trợ lý tóc hung mũi lõ. Chính một nhà báo Mỹ ở Hong Kong phát hiện điều này và báo chí được dịp tha hồ bình luận.

Tôi suy nghĩ rất nhiều về cách thức làm sao đạt được mục đích của mình mà không gây thất vọng cho các đối tác đàm phán. Lúc đó, tài khéo xoay xở - một trong những vốn quí của người Việt - được dịp phát huy. Tôi phân tích rằng không thể nào yêu cầu các nước giảm ngay lập tức lượng hàng xuất khẩu, thế nhưng nếu yêu cầu họ xuất khẩu một cách hợp lý - một dạng hạn ngạch - thì chắc chắn họ sẽ không phản ứng nhiều. Cách thức này tỏ ra khá hiệu quả.

Đàm phán với Hong Kong, Đài Loan và Hàn Quốc cam go nhất. Lúc đó, đây là ba nhà xuất khẩu mới nổi nhưng đầy đe dọa đối với thị trường EEC. Trong khi dệt may chiếm một phần ba sản lượng xuất khẩu của các nước kém phát triển lúc bấy giờ, sản lượng hàng dệt của ba nước nói trên chiếm hơn hai phần năm, còn hàng quần áo chiếm tới ba phần tư.

Tôi kiên quyết giảm số lượng hàng của ba nước này vì họ xuất khẩu rất nhiều hàng nhái và hàng giả rẻ tiền. Người Hong Kong tỏ ra rất giận dữ. Có lúc họ từ chối đàm phán. Tôi nói với họ: "Hãy tìm cách tăng chất lượng hàng hơn là tăng số lượng. Bán năm cái áo sơmi với giá 3 đôla/chiếc chắc chắn là lãi hơn bán mười cái áo với giá 1 đôla/chiếc". Sau đó, Hong Kong đi theo hướng này và họ ngỏ lời cảm ơn tôi vì đã tư vấn đúng đắn.

Tôi đã thực hiện cuộc marathon đàm phán hơn 30 hiệp định trong một thời gian kỷ lục là sáu tuần lễ. Ngay sau khi hoàn tất đàm phán hiệp định thứ 32, tôi lập tức phải nhập viện để phẫu thuật sỏi mật.

Ảnh Trần Văn Thình trên báo Le Point ngày 3-12-1990 với lời chú thích: "Paul Trần Văn Thình: đây là một cuộc cải cách chứ không phải sự tự sát"
Hiệp định dệt may cuối cùng

Tháng 10-1979, tôi được bổ nhiệm đi Thụy Sĩ với trọng trách là trưởng phái đoàn thường trực đầu tiên của EC bên cạnh các tổ chức quốc tế tại Geneva (Thụy Sĩ), đại sứ của EC tại GATT. Trước khi rời Brussels (Bỉ), tôi tới Bắc Kinh đàm phán hiệp định dệt may cuối cùng với Trung Quốc - một sự kiện nhiều điều đáng nhớ.

Đây là hiệp định đầu tiên về dệt may mà Trung Quốc ký kết với nước ngoài, vì vậy phía Trung Quốc rất cẩn trọng. Việc đàm phán bị kéo dài đã lâu. Tôi tới Bắc Kinh ngày thứ sáu 13-7-1979. Một cán bộ của Bộ Thương mại nói rằng anh ta được chỉ thị sẽ đáp ứng mọi yêu cầu về ăn nghỉ của tôi.

Tôi ngỏ ý muốn đi Tây Tạng tham quan. Một tiếng sau anh cán bộ trả lời rằng Tây Tạng xa, đi và về phải mất bốn ngày nhưng sau này dù ký hay không ký được hiệp định dệt may thì Chính phủ Trung Quốc vẫn mời tôi thăm Tây Tạng. Vài năm sau, họ thực hiện lời hứa của mình.

Trong vòng bốn ngày, đàm phán luôn trong tình trạng căng thẳng bởi vị trưởng đoàn, một người đã lớn tuổi, luôn luôn giữ một quan điểm. Không hiểu sao tôi lại nhớ nhất đặc điểm là ông ấy đeo toàn răng giả. Người ta giới thiệu với tôi là ông ấy từng tham gia cuộc Vạn lý trường chinh.

Một hôm đàm phán đến tận 2 giờ sáng, vị trưởng đoàn yêu cầu nghỉ giải lao để uống trà và muốn gặp riêng tôi. Lúc chỉ còn hai người, ông ấy hỏi: "Trung Quốc và VN vừa có va chạm. Điều này có ảnh hưởng tới đàm phán không?". Tôi trả lời: "Không có vấn đề gì vì trong cuộc đàm phán này, tôi đại diện cho quyền lợi của châu Âu".

Hình ảnh Trần Văn Thình trong một bản tin nội bộ của Ủy ban châu Âu với chú thích "Trần: không có đối thủ"

Tới ngày thứ năm, thứ trưởng Bộ Thương mại Trung Quốc - một phụ nữ khá lịch thiệp mà tôi không còn nhớ tên - mời tôi đi dạo và uống cà phê. Phiên dịch cho tôi là một người Pháp gốc Trung Quốc sinh ra ở Thượng Hải, lúc ấy là đại diện thương mại của EC ở đó. Chúng tôi đi dạo quanh một cái hồ rất đẹp, đi nửa tiếng đồng hồ nói đủ thứ chuyện, chẳng liên quan gì tới dệt may hay thương mại.

Bỗng nhiên, bà thứ trưởng nói: "Tôi đã đồng ý hết mọi điều kiện ông đưa ra. Nhưng tôi muốn ký kết ngay hôm nay". Tôi nói: "Văn kiện phải dịch ra tiếng Pháp, tiếng Anh và tiếng Trung Quốc, rồi phải so sánh đối chiếu, tôi sợ không kịp". Nhưng bà ấy khăng khăng không chịu. Thế là đoàn đàm phán hai bên làm việc thâu đêm để ký kết hiệp định vào lúc 5 giờ sáng. Thỏa thuận này có giá trị năm năm và cho phép Trung Quốc tăng đáng kể số lượng hàng dệt may vào EEC. Sau này, tôi nhận được phản hồi từ Trung Quốc là họ rất hoan nghênh thỏa thuận đã đạt được.

Duyên nợ của tôi với Trung Quốc vẫn chưa hết. Sau đó, khi Trung Quốc đàm phán gia nhập GATT, họ lại chạm trán tôi. Không biết là may hay rủi. Cách thức đàm phán của họ lặp lại y như lần đàm phán hiệp định dệt may, cứ nhùng nhằng kéo dài. Một lần tôi nói thẳng: "Các ngài xin gia nhập GATT chứ không phải GATT xin gia nhập Trung Quốc". Họ nổi giận, lập tức viết một bức thư gửi chủ tịch EC phàn nàn về tôi.

Bị Trung Quốc kiện cũng là điều không đơn giản, tôi có thể bị mất chức. Nhưng chủ tịch EC lúc bấy giờ là Jacques Delors nói với tôi: "Ông toàn quyền quyết định trong đàm phán. Những điều ông nói là đúng. Tôi không can thiệp gì cả". Mặc dù có nhiều "kỷ niệm" đáng nhớ như vậy nhưng Chính phủ Trung Quốc luôn coi trọng tôi. Trước khi VN và Pháp ký hiệp định lãnh sự miễn thị thực đối với hộ chiếu ngoại giao, tôi về VN vẫn phải mất thời gian cho khâu xin thị thực trong khi từ lâu Chính phủ Trung Quốc đã cho tôi hưởng qui chế miễn thị thực lâu dài.

Tôi còn giữ được một bài báo của Financial Times số ra ngày 3-12-1977 đưa tin về sự kiện EEC đàm phán dệt may với các nhà xuất khẩu châu Á. "Một cỗ máy nhỏ với chiến thuật kiểu Napoleon", họ trích dẫn một vài người mô tả về tôi như vậy. Họ gọi tôi là "Nhân vật trong tuần" (Man of the week). Họ cũng tường thuật lại cuộc họp báo do tôi tổ chức. Tại cuộc họp báo đó, tôi đã tuyên bố rằng tôi chấp nhận công việc đi đàm phán với điều kiện tôi sẽ từ chức một cách rùm beng nếu tôi biết EEC đang đối xử không công bằng với các nhà cung cấp dệt may. 

PAUL TRẦN VĂN THÌNH (Cẩm Hà - Vũ Lập ghi)

Dù trở thành một công dân châu Âu hàng đầu như báo chí gọi Trần Văn Thình lúc đó, trái tim ông vẫn ấp ủ niềm hoài nhớ quê hương. Việt Nam những năm 1980 còn nghèo khó và lạc hậu. Nhưng ông đã tìm về.

Kỳ tới:   Trái tim tôi ở VN

Paul Trần Văn Thình - chuyện đời tôi (kỳ 5): Trái tim tôi ở Việt Nam

TT - Sau chuyến trở về VN lần đầu tiên năm 1988, một sự gắn bó máu thịt với VN bền chặt thúc giục chúng tôi tiến hành những chuyến trở về khác. Chúng tôi về VN bất cứ khi nào có thể, mỗi năm một hai lần.

>> Kỳ 1: Paul Trần Văn Thình - Chuyện đời tôi
>> Kỳ 2: Nước Pháp
>> Kỳ 3: Nhà đàm phán thương mại
>> Kỳ 4: Cuộc chiến dệt may

Trở về sau 41 năm

Năm 1947, lúc còn học ở thị trấn Chambon sur Lignon, tôi không quản đường xa xin đi nhờ ôtô từng đoạn đến Paris để được gặp Cụ Hồ Chí Minh khi Người sang Pháp dự hội nghị Fontainbleau. Tôi có một người cậu kết nghĩa tên Nguyễn Văn Chỉ, đảng viên Đảng Cộng sản Pháp, là bạn học của cha tôi, từng tham gia kháng chiến chống phát xít Đức. Vợ cậu, Franc5ois Corest, phóng viên báo Nhân Đạo, quen biết và có thiện cảm đặc biệt với ông Phạm Văn Đồng. Bà kể với tôi về ông Đồng: "Ông ấy là người tuyệt vời, nói tiếng Pháp rất chuẩn và trau chuốt. Đặc biệt, ông ấy rất đẹp trai". Chính bà đã đưa tôi tham gia đoàn Việt kiều đến Fontainbleau gặp Cụ Hồ.

Vào khoảng năm 1986, Bộ Thương mại VN thông qua phái đoàn thường trực VN bên cạnh Liên Hiệp Quốc tại Geneva (Thụy Sĩ) chuyển lời mời tôi về VN để đánh giá tình hình kinh tế và tư vấn cho các chính sách đổi mới kinh tế đang manh nha bắt đầu. Có lời mời này là bởi ông Lê Đình Cận, tham tán công sứ của VN lúc đó, có báo cáo về nước trường hợp của tôi. Khi đó, tôi cũng đã triển khai một vài hoạt động trợ giúp phái đoàn của VN tại Geneva. Ông Phạm Văn Đồng, trong vai trò cố vấn, lập tức chỉ thị Bộ Thương mại mời tôi về.

Ông Trần Văn Thình và vợ, bà Brigitte, trong một lần về thăm quê vào năm 1992
Nhận được lời mời, tôi hơi lưỡng lự vì quả thật thông tin về VN hồi đó còn hạn chế. Do đó tôi còn vài điều e ngại. Hai năm sau, một lần nữa lời mời về VN lại được chuyển tới tôi, lần này là do Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch đích thân đề xuất theo gợi ý của Bộ trưởng Ngoại giao Pháp Claude Cheysson, một người bạn của tôi.

Khi biết tôi có ý định trở lại VN, nhiều người trong gia đình tôi phản đối dữ lắm. Nhưng tôi vẫn quyết tâm về. Tôi nghĩ: đất nước nào cũng có các chương lịch sử nhưng dân tộc và nhân dân vẫn vượt lên tất cả.

Vậy là mùa hè năm 1988, tôi về thăm lại quê hương VN thân thương sau 41 năm xa cách. Tôi và vợ tôi - Brigitte - bước lên máy bay với nhiều cảm xúc trộn lẫn trong lòng, vừa mừng vui vừa hồi hộp.

Những tình bạn ở VN

Về VN theo lời mời của Chính phủ VN nhưng tôi và vợ tự lo liệu chi phí chuyến đi. Hiểu tình hình khó khăn của đất nước, tôi không về tay không. Hành lý của chúng tôi gồm năm chiếc máy vi tính nhỏ đời đầu của Pháp. TP.HCM lúc ấy đang có ý định thành lập thư viện điện tử nên tôi mang máy tính về tặng để giúp mọi người làm công việc thống kê.

Trong thời gian ở VN, tôi cũng không gặp gỡ bất cứ đại sứ châu Âu nào tại Hà Nội theo như phép tắc ngoại giao thông thường. Điều này khiến chuyến đi của tôi bị nhiều người chỉ trích. Nhiều đại sứ châu Âu gửi điện đến Bộ Ngoại giao Pháp đặt dấu hỏi về chuyến đi của tôi. Ông Claude Cheysson, bộ trưởng ngoại giao, trả lời: "Ông ấy là một công chức. Ông ấy có quyền tự do đi nghỉ hè". Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch cũng trả lời tương tự đối với những thắc mắc từ phía VN.

Trong chuyến về thăm đất nước đầu tiên này, tôi có dịp gặp gỡ nhiều lãnh đạo cao cấp. Tôi gặp ông Phạm Văn Đồng và có nhiều cuộc đàm đạo với Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch tại Hà Nội. Tại TP.HCM, thông qua sự thu xếp của chủ tịch UBND thành phố Nguyễn Vĩnh Nghiệp, tôi có một cuộc tiếp xúc không chính thức với Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh. Tôi nhớ ông Nghiệp chiêu đãi vợ chồng tôi món bánh xèo Nam bộ. Vợ tôi rất thích món này. Qua tiếp xúc với vợ tôi, ông ấy liền phong cho vợ tôi là "Nàng dâu Việt".

Ông Trần Văn Thình (phải) đến thăm Đại tướng Võ Nguyên Giáp
Trong một lần gặp gỡ với ông Võ Văn Kiệt, tôi trình bày với ông về tầm quan trọng của việc tiến hành hội nhập kinh tế. Lúc ấy, việc gia nhập Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT) còn khá dễ dàng. Tôi, với tư cách là đại sứ của phái đoàn Ủy ban châu Âu tại GATT, có thể góp phần thúc đẩy tiến trình đàm phán của VN. Tôi gợi ý rằng VN nên gia nhập GATT trước khi gia nhập ASEAN. Tôi cũng nói về việc cần phải đi tắt đón đầu để phát triển công nghệ. Tôi lấy ví dụ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, các nhà máy tại Đức được tháo ra đưa sang Pháp sử dụng để bồi thường chiến tranh. Nhờ việc này mà Đức có điều kiện thành lập các nhà máy mới, và do vậy công nghệ của Đức giờ tiên tiến hơn hẳn Pháp. Tôi không muốn VN phạm phải sai lầm nhập những công nghệ cũ, lạc hậu về.

Ông Võ Văn Kiệt ủng hộ những điều tôi nói. Nhưng ông cũng giãi bày: "Những ý tưởng của ông rất hay. Nhưng trong nước còn nhiều việc phải làm. Chắc ít nhất mười năm nữa VN mới áp dụng những chính sách ông gợi ý".

Ngoài các cuộc gặp tại Hà Nội, tôi còn có dịp đón tiếp ông Võ Văn Kiệt tại nhà riêng của tôi ở Geneva khi ông tới Davos (Thụy Sĩ) dự Diễn đàn kinh tế thế giới. Trong lần ăn trưa đó, tôi cũng mời cả ông Jean - Claude Trichet, lúc đó là bộ trưởng ngân khố Pháp (hiện nay là chủ tịch Ngân hàng Trung ương châu Âu). Phiên dịch cho cuộc gặp gỡ này là một người phụ nữ VN duyên dáng, lịch thiệp và nói tiếng Pháp chuẩn không chê vào đâu được: bà Tôn Nữ Thị Ninh.

Về VN, tôi thường được mời đi thuyết trình ở các trường đại học và một số cơ quan. Tôi nói nhiều về softomics, nền kinh tế mềm, uyển chuyển với nền công nghiệp mà nguyên liệu là "chất xám", nhất là ngành công nghiệp phần mềm. Tôi nghĩ đi theo hướng này VN hoàn toàn có thể thành công bởi tố chất người Việt là linh hoạt, khéo léo và học hỏi nhanh. Những bài phát biểu của tôi thời cuối những năm 1980 ở VN trở thành một hiện tượng. Một số người ghi âm lại, dịch ra tiếng Việt rồi chuyền tay nhau các bài phát biểu này.

Một ngày, tôi nhận được một lá thư. Thư viết ngắn gọn như một mệnh lệnh với nét chữ rắn rỏi: "Những điều ông nói về softomics hay lắm. Tôi muốn gặp ông". Ký tên: Võ Nguyên Giáp. Lá thư ấy mở đầu cho tình bạn thân thiết của tôi và đại tướng Giáp. Kể từ đó, mỗi lần về VN là tôi lại ghé thăm ông. Chúng tôi trao tặng nhau các cuốn sách, ngồi đàm đạo chuyện đời. Chị Hà, vợ ông, cũng nói tiếng Pháp thành thạo và là một người phụ nữ rất cởi mở. Sau này, sức khỏe Đại tướng Giáp không còn dồi dào như trước nữa, nhưng mỗi khi tôi ngỏ lời ông dành thời gian để tiếp những người bạn Pháp có nguyện vọng gặp gỡ ông, gia đình đều đồng ý thu xếp ngay. Cựu thủ tướng Pháp Michel Rocard, bạn đồng môn với tôi thời sinh viên, sau khi thăm Đại tướng Giáp đã nhận xét: "Tướng Giáp như một pháo đài cổ không phai tàn theo năm tháng".

PAUL TRẦN VĂN THÌNH
(Cẩm Hà - Vũ Lập ghi)

------------

Trần Văn Thình nói ông không có ý định viết hồi ký. Ông chỉ muốn qua câu chuyện nhỏ của mình, chia sẻ với các bạn trẻ những giá trị tinh thần mà ông theo đuổi.

Kỳ tới: Bí quyết thành công của tôi

Paul Trần Văn Thình - chuyện đời tôi - Kỳ cuối: Bí quyết thành công của tôi

TT - Nếu nói tôi có biệt tài gì thì chắc chắn câu trả lời là không. Tôi thường tâm niệm, như lời bà nội kế của tôi từng dạy khi tôi còn nhỏ, rằng không bao giờ nên nói dối vì sự trí trá là con dao hai lưỡi khiến có ngày chính mình sập bẫy của mình.

>> Kỳ 1: Paul Trần Văn Thình - Chuyện đời tôi
>> Kỳ 2: Nước Pháp
>> Kỳ 3: Nhà đàm phán thương mại
>> Kỳ 4: Cuộc chiến dệt may
>> Kỳ 5: Trái tim tôi ở Việt Nam

Cùng "ăn bánh"

Cách thức tôi luôn áp dụng cho cả 82 hiệp định mà mình đàm phán cho Cộng đồng Kinh tế châu Âu (EEC) từ năm 1961-1994 là "lật bài ngửa". Tôi nói chúng tôi có từng này, có lẽ chúng ta phân chia 51-49 để cùng "ăn bánh" cho ngon. Với nghệ thuật này, đôi khi tôi giành được đến 70-80% cho EEC. Tuy nhiên, không bao giờ tôi để đối tác cảm thấy thiệt thòi quá cả. Bởi nếu không để họ có phần "ăn", chắc chắn họ không bao giờ thực thi thỏa thuận nghiêm túc.

Thế nhưng, nói thật không có nghĩa là nói toàn bộ sự thật. Trong một cuộc phỏng vấn, tôi nói rằng "không ai thoát y vũ khi đàm phán". Có những sự thật mình cần giữ lại cho riêng mình.

Tôi nghiệm ra chính những giá trị sống mà tôi theo đuổi đã giúp tôi thành công chứ không phải tài năng thiên bẩm nào. Để ra một quyết định, tôi thường tuân theo bốn giai đoạn. Ban đầu là sự chỉ dẫn có tính bản năng, rằng điều này là nên hay không nên. Giai đoạn thứ hai là phán đoán các tình huống, các chiều hướng và xu thế có thể diễn ra. Giai đoạn thứ ba là phân tích các mặt được và không được, các mặt lợi và bất lợi. Và cuối cùng là lắng nghe trái tim của mình mách bảo có nên làm điều ấy, tức là để chữ tâm lên tiếng. Thỉnh thoảng tôi cũng phạm những sai lầm, nghiệm ra là bởi vội vàng bỏ qua một trong các giai đoạn trên.

Điều thứ hai, tôi rất muốn chia sẻ với các bạn trẻ, đó là không nên tự ái vặt. Tôi đã chứng kiến nhiều người trẻ tuổi  vừa bị phê bình đôi chút liền nhảy dựng lên ra sức bảo vệ mình. Trong 15 năm làm việc tại Geneva (Thụy Sĩ), tôi luôn duy trì cuộc họp vào sáng thứ ba hằng tuần. Tôi tập trung toàn bộ nhân viên và nói: "Tuần qua tôi đã làm những gì không vừa lòng quí vị, xin phê bình tôi thẳng thắn". Cách làm ấy khiến những người xung quanh tôi cảm thấy thoải mái, vì họ được giãi bày và biết rằng tôi không bao giờ để bụng những góp ý chân thành của họ.

"Đừng nói dối" - lời dặn của bà tôi năm nào luôn bổ ích cho cuộc đời tôi

Có lần tôi đi dự một cuộc chiêu đãi ở Nhật Bản, một quan chức người Nhật trong bữa tiệc bỗng đứng dậy cảm ơn tôi đã đào tạo ông trở thành một chuyên gia thương mại. Lần khác, tôi đi công tác tại Venice (Ý) thì nhận được một món quà từ một phụ nữ không quen biết. Thư viết: "Thưa đại sứ, nhà tôi trước khi mất dặn đi dặn lại tôi phải tìm mọi cách để cảm ơn đại sứ, người mà nhà tôi kính phục và hàm ơn. Nhà tôi nói rằng đại sứ đã cho nhà tôi một lượng kiến thức rất lớn, qua đó góp phần tạo dựng sự nghiệp của nhà tôi".

Tháng 5-2003, tôi nhận được thư của Jonathan Scheele - trưởng phái đoàn Ủy ban châu Âu tại Romania. Ông Scheele gửi cho tôi tờ báo, trong đó khi phóng viên hỏi thần tượng của ông là ai và ông trả lời bằng một cái tên VN: Trần Văn Thình. Tôi vui vui xen lẫn chút tự hào.

Trong khi các nước Nhật Bản, Mỹ thay tới ba, bốn đại sứ, tôi là đại sứ duy nhất của châu Âu tham gia từ đầu đến cuối vòng đàm phán Uruguay nhằm thành lập WTO. Có lần một quan chức cao cấp của Bộ Thương mại Mỹ gặp tôi tại Tokyo và ngỏ ý mời tôi nhập quốc tịch Mỹ để đi đàm phán cho Washington. Tôi nhã nhặn trả lời: "Cảm ơn ông, nhưng tôi không phải là một lính đánh thuê". Tôi cũng từng được mời làm đại sứ của Ủy ban châu Âu tại Mỹ nhưng tôi từ chối. Tôi muốn hoàn tất vòng đàm phán Uruguay, hoàn tất những mục tiêu của mình về thiết lập các luật lệ thương mại đa phương hiệu quả và công bằng. Vòng đàm phán này có mầm mống từ năm 1982, chính thức bắt đầu từ tháng 9-1986 và kết thúc vào ngày 15-4-1994 với thỏa thuận ký tại Marrakech, Morocco.

Đó cũng là thời điểm tôi về hưu, ở tuổi 65, giã từ đấu trường thương mại toàn cầu mà mình từng can dự và góp phần kiến tạo một vài mốc lịch sử.

Đến cuối cuộc đời

"Đừng nói dối" - lời dặn của bà nội tôi năm nào còn giúp tôi giải quyết nhiều vướng mắc của cuộc sống tình cảm riêng tư. Người vợ đầu của tôi là một phụ nữ người Pháp tôi quen từ khi cô ấy còn rất trẻ ở Paris. Thời ấy, các kiến thức về tình dục và quan hệ luyến ái còn hạn chế. Có một lần hôn vào môi cô ấy, tôi cứ nghĩ đã hôn nhau rồi là phải lấy nhau nên tôi cầu hôn. Đó là năm 1952, tôi 23 tuổi. Cha mẹ tôi không đồng ý cuộc hôn nhân này vì mẹ tôi đã nhắm một cô vợ ở Việt Nam cho tôi. Khi đó tôi còn nghèo, cuộc sống của cả hai đều vất vả. Tôi hứa sẽ che chở vợ tôi đến cuối cuộc đời. Tôi từng nói với bà ấy: "Anh sẽ lo cho em đến phút cuối cùng".

Ông Trần Văn Thình cùng vợ và hai con tại Venice tháng 6-2006

Tôi đã làm như vậy. Cuộc sống gia đình sau này xảy ra sự bất hòa, chúng tôi đành chọn giải pháp chia tay. Nhưng giữ nguyên lời hứa năm nào, tôi không ra tòa ly dị.

Khi tôi quen biết Brigitte - người vợ hiện giờ - tôi tâm sự hết mọi chuyện với cô ấy. Tôi nói tôi không thể làm giá thú với Brigitte vì không thể phá vỡ lời hứa với người vợ thứ nhất. Kể cả khi đã sống chung với Brigitte, lương tháng của tôi được chia đôi, một nửa để dành cho người vợ đầu. Mãi đến năm 2000, hai năm sau khi người vợ đầu qua đời, tôi và Brigitte (lúc ấy tôi 71, Brigitte 52 tuổi) mới đưa nhau đến tòa thị chính ở Annemasse, một thành phố thuộc Pháp sát biên giới với Geneva, làm thủ tục đăng ký kết hôn. Brigitte hiểu tôi. Cô ấy nói: "Nếu anh không đàng hoàng với người vợ đầu rồi anh cũng có thể không tốt với người vợ thứ hai".

Thi thoảng tôi nói đùa với Brigitte rằng tôi thương cô ấy quá chừng vì cô ấy tốt như một nàng dâu Việt chính cống. Lúc đó, cô ấy tròn xoe mắt vì tôi nói câu "nịnh đầm" ấy bằng giọng miền Nam đặc sệt mà cô ấy chẳng hiểu gì.

PAUL TRẦN VĂN THÌNH
(Cẩm Hà - Vũ Lập ghi)


No comments: